top of page
Winston Lee-1.JPG

Winston Lee

Năm 1985, từ Nha Trang, ông Winston Lee (tên Việt là Nguyễn Văn Hoa), trải qua 29 ngày lênh đênh trên biển cùng 26 người khác trong tình cảnh đói khát, “thập tử nhất sinh,” để cuối cùng may mắn được tàu Nhật cứu vớt. Ký ức đau thương ông trải qua không hề xóa nhòa trong suốt 40 năm qua khi chứng kiến một đứa trẻ chết trên thuyền và bốn người bạn xuống thúng mất tích. Sinh sống bằng nhiều công việc khác nhau, nhưng ông lại có duyên với nghề làm nhà hàng. Nhà hàng Nha Trang không chỉ là điểm hẹn lý tưởng không thể thiếu, đáp ứng nhu cầu ăn uống, “hát cho nhau nghe,” mà còn là địa điểm để tổ chức các sự kiện, hoạt động phục vụ cho cộng đồng người Việt ở San Diego.

In 1985, Winston Lee (Vietnamese name: Nguyễn Văn Hoa) fled Nha Trang, surviving 29 harrowing days at sea with 26 others, enduring starvation and near-death, before being rescued by a Japanese ship. The trauma remains vivid after 40 years—he witnessed a child die on the boat and four friends disappear at sea. Though he held various jobs, fate led him to the restaurant industry. His restaurant, Nha Trang, has become a beloved gathering place in San Diego—not just for food and music, but as a hub for Vietnamese community events, making him a steadfast contributor to cultural preservation and unity.

Chuyến vượt biển kinh hoàng của chủ nhà hàng Nha Trang

By Đoan Trang

Winston Lee-2.jpg

Với ông Winston Lee, chủ nhà hàng Nha Trang ở San Diego, nỗi ám ảnh kinh hoàng trong 29 ngày vượt biển tìm tự do cách đây hơn 40 năm, vẫn nằm sâu trong ký ức, không bao giờ phai nhạt.

Sau năm 1975, cậu bé thiếu niên Nguyễn Văn Hoa (tên tiếng Việt của ông) - một người con phố biển, từng theo anh mình đi vượt biển nhiều lần từ Nha Trang. Năm 1983, ông bị bắt trong một chuyến vượt biên bất thành, đi tù hai năm. Nửa năm sau khi ra tù, ông gặp người bạn cũ là Long, rủ tìm cách tính đường vượt biên nữa. Lúc đầu vì thương mẹ, lại mới ra tù, ông ngần ngại, không dám. Nhưng suy nghĩ mãi, không còn con đường nào khác, ông cùng Long bàn bạc, quyết định cướp ghe đánh cá để vượt biển. 

Khi đã tính toán kỹ lưỡng, ông về báo với người mẹ, được bà đồng ý, lại còn chuẩn bị, đưa thêm dầu, đồ ăn, nước uống. Tối hôm đó, hai ông chặt neo cướp ghe, chở thêm 26 người khác bắt đầu ra khơi. Trước đó, ông ra kho đá ở Cam Ranh, lấy khẩu súng, và hai trái lựu đạn mà cha của ông (một quân nhân VNCH) cất dấu.

Khi đi, ông mang theo hải bàn, và được người cha dặn dò kỹ lưỡng: nếu gặp gió Bắc thì chạy lên 90 độ, còn gặp gió Nam thì xuống 65 độ, trong vòng hai ngày hai đêm là tới Phi Luật Tân. Không ai ngờ, từ ngày bước lên ghe cho đến khi chân chạm đất liền, họ phải trải qua 29 ngày đêm hoảng loạn, đói khát, đau thương, mất mát, giữa biển khơi.

Ông Lee kể, ba ngày đầu ghe bị dạt sóng, hầu như tê liệt. Lương thực chỉ đủ hai ngày, đến ngày thứ ba là hết, dầu sắp cạn. Chiếc ghe cứ chậm rãi lênh đênh, xung quanh là biển trời mênh mông, chạy thêm một ngày nữa thì hoàn toàn mất phương hướng. Hết dầu, hết sạch lương thực, hàng chục người vừa đói, vừa khát, nằm vật vã.

Cứ như vậy, ghe trôi được một tuần thì gặp tàu của Đài Loan. Quá mừng rỡ, những anh thanh niên còn đủ sức tính nhảy qua tàu, nhưng bị cản lại. Người Đài Loan không cứu, mà chỉ cho đồ ăn và tiếp tế dầu để ghe có thể chạy tiếp.

 

“Họ cho 2 thùng phuy dầu, hàn lại, rồi bỏ lương thực lên, đặt vô cái phao, kêu tới lấy,” ông Lee kể . “Lúc đó, mấy anh biết bơi phải nhảy xuống biển bơi ra cái phao kéo về tàu, cho dầu vào rồi nổ máy chạy tiếp. Họ còn cho tụi tôi bản đồ, kêu chạy chừng mấy trăm dặm nữa là tới Malaysia.”

Nhưng chạy theo hướng nào? Ông Lee nói không phải mấy trăm dặm, mà chiếc ghe của ông chạy thêm cả chục ngày nữa, vẫn chưa thấy đâu là bờ, mà ghe lại hết dầu, đồ ăn thức uống cũng cạn. Khi ghe dần chìm, nước vô tới một nửa, nhưng mọi người không ai còn đủ sức để tát nước ra. Ông Lee nhớ lại:

 

“Thấy vậy, Long quyết định sẽ cùng hai người em, và cô vợ khi đó đang mang thai, xuống thúng chai (vật dùng đưa người từ bãi đất ra ghe), để ghe được nhẹ bớt. Tôi lo lắng hỏi bạn, liệu an toàn không? Liệu thúng có bị chìm không? Nhưng Long đã quyết, không cản được. Mục đích của Long là khi xuống thúng, nếu may gặp tàu lớn có thể được vớt lên ngay.”

Bốn người (và một bào thai) xuống thúng chai buổi sáng, ghe và thúng “đường ai nấy đi,” qua một ngày thì họ thất lạc nhau. Khoảng hai ngày sau, tàu của ông Lee gặp lưới đánh cá của một tàu Đại Hàn. Mồi đánh cá là một bữa thịnh soạn cho mọi người trên ghe. Những dân chài Đại Hàn tốt bụng còn cho mọi người lên tàu, mời ăn dưa hấu. Sau khi cung cấp thêm dầu và lương thực, họ yêu cầu mọi người xuống ghe, vì dân chài không được phép cứu người.

Có thêm dầu và thức ăn, ghe tiếp tục vượt biển, gió chiều nào cho ghe theo chiều đó. Mọi người cầu mong gặp lại bốn người trên thúng chai để tiếp tế lương thực, nhưng qua ngày hôm sau mới thấy thúng, may mà mọi người trong thúng vẫn khỏe, được ăn uống cho có sức. Ông Lee hỏi: “Mọi người chịu đựng được bao lâu nữa?” Long trả lời: “Nếu uống nước biển, tụi này chịu thêm được bảy ngày nữa.”

Ghe tiếp tục lênh đênh trên biển được hơn 10 ngày, chẳng biết đi về đâu, dầu, lương thực, nước lại hết, nhưng may mắn thay, trời đổ mưa. Mọi người quyết định cởi quần áo, cả nam lẫn nữ, thắt lại thành buồm, giương lên để ghe trôi, còn thúng chai thì để chứa nước mưa. Nhưng khi mưa đổ xuống, nước từ buồm chỉ toàn một màu đỏ sẫm, là máu tháng ngấm trong quần của nhiều phụ nữ. Mọi người phải đổ đi, tráng lại để tiếp tục hứng nước mưa, nhưng không thể tráng nhiều lần vì nếu cơn mưa ngừng hạt, sẽ không có nước. Và vì vậy, nước dù còn màu hồng nhạt, không ai dám đổ, mà chắt ra những chiếc can để uống.

Sau đó bốn người lại quyết định xuống thúng, đem theo vài can nước mưa. Trên ghe của ông Lee khi đó nhiều người chỉ còn da bọc xương, một người thoi thóp, và một cháu bé bốn tuổi, vì quá yếu, đã không qua khỏi. Cháu bé chết được ba ngày trên ghe, mọi người bảo nhau phải đưa bé xuống biển. Họ dùng hai thùng phuy của tàu Đài Loan cho, đặt đứa bé nằm lên, rồi thả trôi.

Qua buổi sáng hôm sau, thùng phuy biến mất. Vào một buổi đêm sau đó hai ngày, người trên ghe nghe rầm rầm, là tiếng va chạm của chiếc thùng phuy. Vài người trên ghe kể, đêm ấy họ nghe thấy tiếng đứa bé than khóc, kêu đói và khát. Ông Lee nghe vậy, nói với ba của cháu bé, cùng nhau cầu nguyện cho bé siêu thoát và giúp mọi người trên ghe gặp may mắn.

Thời gian cứ thế trôi đi, mọi người chỉ nằm trên ghe, chờ chết. Đến ngày thứ 29 trên biển, cũng vào buổi tối hôm, ghe lại đụng phải một vật gì đó rất mạnh. Mọi người bật dậy, thì ra đó là chiếc tàu đánh cá. “Thật ra không phải tàu, mà là ghe, nhỏ hơn ghe của chúng tôi,” ông Lee kể . “Lúc đó tôi mới biết là ghe mình đã trôi vào hải phận của Phi Nhật Tân rồi. Nhưng ghe của họ nhỏ quá, nên họ kêu thêm bốn chiếc nữa tới cứu chúng tôi, và còn cho biết hai ngày nữa sẽ có bão rất lớn, nếu không gặp được họ, chiếc ghe của chúng tôi sẽ bị một cơn bão vùi sâu dưới đáy biển.”

Ra biển có 28 người, lên bờ chỉ còn lại 23, vì một bé mất, 4 người xuống thúng chai cũng mất tích cho đến nay, không ai biết tin tức gì về họ. 

Vậy là sau 29 ngày đêm, những người trên chiếc ghe vượt biển, cuối cùng cũng được chạm được bến bờ tự do. Nhưng có một điều cho đến tận bây giờ, là vì sao chiếc thùng phuy có thi hài cháu bé biến mất nhưng lại xuất hiện, đập vào ghe, báo tin cho mọi người? Cháu bé mất rồi, sao còn tiếng kêu vang vọng trong đêm khuya giữa biển trời bao la? Nhưng rồi mọi người tin rằng, chính cháu bé đã đưa chiếc ghe đến gần tàu Phi Luật Tân, trước khi cơn bão lớn ập tới.

Người Phi Luật Tân tới cứu, được nhóm người của ông Lee tặng 2 chỉ vàng và tấm hải bàn. Họ dìm chiếc ghe xuống biển, rồi đưa mọi người vô đảo, cho ăn uống, sau ba tuần chuyển tiếp sang đảo Palawan, nơi có nhiều người Việt tị nạn. Ông Lee ở đảo hai năm thì được người chị bảo lãnh sang Mỹ.

 

Năm 1987, ông đặt chân đến tiểu bang New Orleans, nơi chị của ông sinh sống. Ba tháng sau, ông liên lạc được cô bạn gái quen ở đảo đã qua Mỹ trước. Ông chuyển sang San Diego để gần người bạn gái.

“Qua San Diego tôi làm nghề cắt cỏ. Cô bạn sinh cho tôi được hai đứa con, một trai, một gái,” ông tâm sự. “Một thời gian sau tôi nghỉ, vô hãng làm được hai, ba năm thì mất việc, tôi chuyển qua làm sơn, cắt cỏ, ai kêu gì tôi làm nấy. Sau đó tôi mở shop bán sơn. Lúc chia tay với mẹ của hai đứa con, tôi hùn với người bạn khoảng $23,000, lấy tiệm “Cà phê 2000,” cũng chính là nhà hàng Nha Trang hiện tại.”

Sau hai năm, người bạn rút vốn, ông Lee kinh doanh một mình. Lúc này ông thấy những quán cà phê ở San Diego thường đóng cửa sớm, nên quyết định mở quán tới 12 giờ đêm, có thêm chương trình “Hát cho nhau nghe” để mọi người đến nghỉ ngơi, thư giãn sau giờ làm việc.

Đến năm 2013, ông Lee đổi quán cà phê thành nhà hàng. Lấy tên là Nha Trang, gặp người vợ thứ hai, sinh cho ông thêm một người con, nhưng duyên phận chỉ đến thế. Họ chia tay, ông lại một mình trông coi quán xá. Thấy kham không nổi, ông sang lại quán cho người quen, dặn dò: “Nhớ nhe, đừng đổi tên quán!”

Sau khi sang nhà hàng, ông lấy lại quán cà Phê Phố, rồi Cà Phê Ly Ly. Một thời gian sau ở Nha Trang quê nhà, người mẹ lâm bệnh, ông quyết định bỏ hết để về Việt Nam với mẹ. Đầu năm 2023, mẹ ông qua đời, ông trở lại Mỹ.

Sau đại dịch COVID-19, kinh tế khó khăn, người chủ nhà hàng Nha Trang không gồng nổi.

 

“Lúc này tôi vẫn một thân một mình, nhưng thấy nhà hàng đóng cửa không cam lòng, tôi lấy lại,” ông Lee tâm sự. “Rồi tôi gặp Linh - cô vợ hiện tại của tôi. Linh ủng hộ tôi rất nhiều, khuyên tôi nên sửa sang lại quán xá cho sạch, trang trí cho đẹp. Từ ngày có Linh về, việc kinh doanh của tôi phất lên. Đúng là đàn ông không có vợ, thất bại nhiều hơn thành công.” 

Từ ngày được sửa sang, nhờ cô Linh Lee quán xuyến, nhà hàng Nha Trang có khách trở lại. Nhà hàng mở cửa từ Thứ Tư đến Chủ Nhật hàng tuần, ban ngày bán thức ăn, buổi tối có chương trình “Hát cho nhau nghe” mà cô Linh là DJ và chơi keyboard.

“Thật sự làm nhà hàng Nha Trang không dễ dàng, giống như làm dâu trăm họ vậy,” ông lee nói. “Nhưng cũng may, bây giờ tụi tôi được khách hàng ủng hộ, người lớn tuổi có, người trẻ có. Cộng đồng San Diego rất hiếu khách, rất lịch sự. Nhiều người nói tôi cố gắng cố gắng duy trì, đừng để ‘mất Nha Trang’ nữa.”

Nhà hàng Nha Trang bây giờ là địa điểm quen thuộc mà khách hàng thường chọn để tổ chức sinh nhật hoặc họp mặt gia đình, bạn bè. Không chỉ kinh doanh, ông Lee còn “cho mượn chỗ” trong nhà hàng làm nơi để tổ chức sự kiện, họp hội,… 

***

“Mỗi khi nghĩ lại chuyến vượt biển kinh hoàng năm xưa, tôi lại thấy mình có được vận may không ngờ, cứ sắp chết lại có người giúp, để rồi cuối cùng mọi người trên ghe vẫn còn sống,” ông Lee hồi tưởng. “Những người trên chiếc ghe vượt biển năm xưa, mỗi người mỗi nơi. Ba của cháu bé bốn tuổi hiện sống ở San Jose. Riêng tôi vẫn luôn đau đáu trong lòng, về Long, vợ và hai người em của anh, giờ này chẳng biết họ đang ở nơi đâu.”

Winston Lee-3.jpg

From Ocean to Opportunity: the 29 days Harrowing Journey of Escape and Survival of Winston Lee

“Whenever we were about to die, something or someone came to save us.” — Winston Lee

By Đoan Trang

It has been more than forty years, yet the terror of those 29 days at sea still lives inside Winston Lee. It flickers beneath his steady voice and gentle demeanor—the quiet reminder of a journey that nearly ended in death, but instead became the foundation of a life dedicated to resilience, remembrance, and rebuilding.

Today, Winston Lee is best known as the owner of Nha Trang Restaurant in City Heights, San Diego—a beloved local spot named after his hometown in Vietnam. But before the restaurant, before the refuge and routine, there was a boat. A compass. A stolen engine. A prayer.

Born Nguyễn Văn Hoa, Lee grew up in the coastal city of Nha Trang. After the Fall of Saigon in 1975, he made several attempts to flee the country with his older brother. Each one failed. In 1983, he was caught and sentenced to two years in prison.

Half a year after his release, Lee reunited with a childhood friend named Long. Together, they made a desperate plan to escape by hijacking a fishing boat. Lee was reluctant at first, especially for the sake of his mother. But eventually, he agreed—and she gave her blessing. She even helped them prepare the vessel, providing food, water, and fuel. That night, they departed with 28 people onboard.

Before setting off, Lee retrieved a hidden compass and two grenades once stashed by his father—a former South Vietnamese soldier, then held in a re-education camp. His father’s final words echoed in his mind:

“If the wind comes from the north, steer 90 degrees. If it’s from the south, steer 65. You’ll reach the Philippines in two days.”

They would be lost at sea for 29.

The boat’s fuel and food ran out by the third day. For a week, they drifted aimlessly until they spotted a Taiwanese fishing vessel. Hope surged. Some passengers prepared to jump aboard, but the crew would not rescue them. Instead, they provided sealed fuel drums, food, and a hand-drawn map.

“They tied the supplies to a buoy,” Lee recalls. “We had to swim to it, haul it back to our boat, and pray the engine would start.”

The map pointed toward Malaysia, but again, days became weeks. Their rations gone, the boat began to take on water. Too weak to bail it out, the passengers lay in silence, awaiting their fate.

In a desperate attempt to lighten the boat, Long, his pregnant wife, and two younger brothers climbed into a makeshift basket-raft, hoping to be rescued separately. Lee pleaded with them to stay. Long insisted—it was their only chance. The two vessels drifted apart and were never reunited.

Two days later, Lee’s boat tangled in the nets of a South Korean fishing vessel. The fishermen brought them aboard, offered food and watermelon, and restocked their fuel and water—but could not legally rescue them. Once again, they were sent back into the sea.

They sailed on, hoping to reunite with Long’s raft. Miraculously, they did. Lee remembers asking how much longer they could survive. “If we drink seawater,” Long replied, “maybe another seven days.”

After resupplied with some food and fresh water, Long’s family continued their journey in the makeshift basket-raft. Lee watched as Long, and the basket drifted and vanished beyond the horizon.

Ten more days passed. One child aboard, a four-year-old boy, succumbed to dehydration. With no way to bury him, the passengers placed his small body inside one of the empty fuel drums and set it afloat.

Three days later, the drum inexplicably returned, crashing into their boat in the dead of night. Some said they heard the boy crying.

“We held his father’s hands and prayed,” Lee remembers. “Not just for the boy, but for everyone still holding on.”

Then, it rained. The group stripped off their clothes, tying them into makeshift sails and using the basket-raft to collect water. But the first runoff was tainted—stained by menstrual blood. Still, they drank what they could. There was no other option.

On the 29th night, the boat collided with a small fishing vessel off the coast of the Philippines. The local fishermen warned of an approaching storm and radioed for help. Within hours, four more boats arrived to rescue them. Only 23 of the original 28 passengers survived.

They were taken to a refugee camp in Palawan, where Lee would remain for two years.

“We asked about Long,” Lee says quietly. “We never found him. Or his wife. Or the baby she was carrying.”

In 1987, Lee was sponsored to the U.S. by his sister in New Orleans. Three months later, he reconnected with a girlfriend he had met in the camp. She had resettled in San Diego—and so Lee followed. They had two children together, a son and a daughter.

Lee worked every job he could find: landscaping, house painting, factory labor. Eventually, he and a friend scraped together $23,000 to buy a struggling café that would one day become Nha Trang Restaurant.

The space quickly evolved into more than a business. It became a community hub. Lee extended operating hours to midnight and introduced a “Sing for Each Other” night, where regulars gathered to perform, unwind, and feel at home.

In 2013, he officially transformed the café into a full-service Vietnamese restaurant. He later remarried and had a third child. Though that marriage ended, the restaurant endured.

At one point, overwhelmed by responsibility, Lee leased the restaurant to a friend—but gave one condition: “Don’t change the name.”

After taking time off to care for his ailing mother in Vietnam—who passed away in early 2023—Lee returned to find the restaurant closed. Unwilling to let it die, he reclaimed it.

It was then that he met Linh, now his wife. Her encouragement helped revitalize the restaurant. She redecorated the space, brought warmth and energy, and today, serves as both DJ and keyboardist during the nightly music shows.

“Since Linh came into my life,” Lee says, “everything changed. Business is thriving. I realized—without someone by your side, success is much harder.”

Today, Nha Trang Restaurant is more than a place to eat. It’s a living memorial to survival, a testament to faith, and a celebration of community. The dining room now hosts not only family gatherings and birthdays, but also community events, meetings, and cultural nights.

“We were saved so many times,” he reflects. “I think we were meant to live—not just to survive—but to rebuild. To honor what we lost by building something better.”

Lee doesn’t dwell on the past. But he carries it quietly, like the memory of the boy in the barrel or the prayer whispered under a foreign sky. And though decades have passed, one hope remains unshaken.

“My secret hope,” Lee says, his voice quiet, “is that one day—just one day—Long, his wife, their child, and his brothers will walk through that door.”

It’s a fragile hope, but it endures. Just like Lee. Just like the name on the sign outside his restaurant—Nha Trang—a place, a memory, and a promise never to forget.

Special Section

Featured pieces highlighting key events, milestones, or honored voices

Reflective Pieces

Thoughtful essays and meditations exploring identity, memory, and the deeper meaning behind lived experiences.

Memoirs

Personal narratives capturing the lived journeys of Vietnamese individuals—stories of migration, resilience, and renewal.

A Gentle Heart

Short writings centered on kindness, empathy, and the quiet strength of compassion within and beyond the community.

Video Stories

Short films and interviews that bring voices and memories to life through moving images and sound.

Photo Stories

Visual narratives told through photography—glimpses of daily life, history, and the quiet power of presence.

Contact Us

​THIS PROJECT FUNDED IN PART BY:

The official “Stop the Hate” logo from the State of California features a bold “CA” in cursive script at its center
The official City of San Diego logo

“I Was There” is a storytelling project that documents the journey of the Vietnamese diaspora and honors their resilience, accomplishments, and contributions to our community.

All rights reserved.

bottom of page