
Dr. Sony Vo
Từ một cậu bé 12 tuổi buộc phải xa quê hương Quảng Nam vì chiến tranh, một mình bươn chải ở Sài Gòn, rồi vượt biên tìm tự do sau ngày Cộng Sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam, cuộc đời Bác sĩ Võ Thanh Sơn (Sony Võ) là một tấm gương sáng về nghị lực và sức chiến đấu không mệt mỏi với nghịch cảnh. Dù đã có bằng bác sĩ tại Việt Nam, ông tới Mỹ chỉ với một bộ quần áo và bắt đầu cuộc đời mới bằng nghề lau nhà. Hơn mười năm sau, ông lấy lại bằng bác sĩ và tiếp tục con đường phục vụ bệnh nhân cho tới khi về hưu tại San Diego. Với Bác sĩ Sony Võ, sự thành công của ông nhờ ba yếu tố: may mắn, tính thành thật, và sự quyết chí trong công việc.
Dr. Võ Thanh Sơn (Sony Võ) was just 12 when war forced him to leave his hometown of Quảng Nam. Alone in Saigon and later fleeing Vietnam after the fall of the South, his journey reflects extraordinary resilience. Though already a licensed physician in Vietnam, he arrived in the U.S. with only the clothes on his back, starting over as a janitor. More than a decade later, he reclaimed his medical license and served patients until retirement in San Diego. He credits his success to luck, honesty, and relentless determination—qualities that have made him an inspiring figure in the Vietnamese-American community.
Bác sĩ Sony Võ: Tấm gương phấn đấu không mệt mỏi
By TRƯỜNG AN
(viết lại theo lời kể của Bác sĩ Võ Thanh Sơn - Sony Võ)

Tôi sinh ra bên dòng Thu Bồn – con sông bắt nguồn từ đỉnh núi Ngọc Linh cao hon 2,500 mét, với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng. Chính vẻ đẹp này đã góp phần hình thành con người tôi với hoài bảo cống hiến cho đời và một tinh thần thép vượt qua nhiều nghịch cảnh.
Năm 1965, chiến tranh Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn ác liệt và lan rộng, trong đó Quảng Nam trở thành một trong những chiến trường khốc liệt nhất ở miền Trung Việt Nam, quê tôi trở thành vùng chiến sự, ngày đêm đì đùng tiếng súng. Lúc đó tôi chỉ mới mười hai tuổi.
Một hôm, ngay trước cổng nhà tôi, một cậu bạn nhỏ xóm trên bị trúng đạn, máu loang lổ trên mặt đất khiến Mẹ tôi lo sợ. Với trái tim người Mẹ, bà không muốn thấy thảm cảnh này xảy ra cho con mình, nên ít lâu sau, bà âm thầm thu xếp để anh tôi bí mật đưa tôi ra Đà Nẵng, rồi đi máy bay vào Sài Gòn.
Vài tuần sau, sau khi thu xếp cho tôi chỗ ăn ở đàng hoàng, tìm cho tôi một công việc nhẹ nhàng, anh tôi vội vã quay về quê, vì không muốn để Mẹ tôi một mình dưới bom đạn. Vài ngày sau, tin anh ngã xuống trên đường trở về làng khiến tôi bàng hoàng, đau đớn, khóc không thành tiếng. Tôi hình dung Mẹ tôi quằn quại trên mặt đất thế nào trước sự ra đi đột ngột của anh tôi. Trái tim bà tan nát khi chứng kiến cảnh tượng hãi hùng ấy ngay trên mảnh đất quê hương.
Sau đó, bà nhắn tin cho tôi với một “mật lệnh” cứng rắn: Bất cứ giá nào, dù gian khổ đến đâu, tôi cũng không bao giờ được trở về, mà phải đi tới. Bà chấp nhận sống xa con, chứ không muốn mất thêm một đứa nào nữa.
Thế là từ một thiếu niên miệng còn hơi sữa, tôi phải tự bươn chải lo kiếm sống từng ngày. Ở Gò Vấp, mỗi ngày tôi đều thức dậy trước 5 giờ sáng, rồi dệt vải đến tối mịt. Nhiều hôm vừa mệt, vừa nhớ gia đình, nhớ quê hương, tôi gục xuống ngay bên bàn cửi với hai hàng nước mắt. Tôi nhớ vào một buổi chiều Chủ nhật, khi đang lang thang trên đường với đầu óc trống rỗng, tôi nhìn thấy tấm bảng của Trường Tân Phương thông báo sắp mở lớp học ban đêm. Như người sắp chết đuối vớ được chiếc phao cứu sinh, tôi vội ghi danh. Đây là cách duy nhất để tôi thoát khỏi đói nghèo, và nhất là khi trí óc bận học, tôi sẽ bớt buồn vì nhớ nhà hơn.
Tôi lao vào học như kẻ “đói khát tri thức”: Ngày gò lưng bên khung dệt, tối đến trường, khuya thì học dưới ánh đèn tù mù, không dám bật sáng vì sợ làm phiền người khác. Mỗi ngày, tôi thức dậy khi trời còn tối đen như mực, tiếp tục một vòng quay làm việc, học bài, như con thoi dệt vải làm việc không ngừng nghỉ.
Tôi khép lòng trước mọi tình cảm trai gái, những lời xúi giục chính trị, và cả sự coi thường, đố kỵ từ người đời. Tôi biết rõ: nơi nào có người tốt thì nơi đó cũng có kẻ xấu. Tôi mang ơn những ai từng nâng đỡ tôi, và nhẹ lòng bỏ qua những lời châm chọc.
Tôi thi đậu trung học năm 1967, Tú tài I năm 1969 và Tú tài II năm 1970, điểm đều khá cao. Đang loay hoay tìm hướng học đại học trong nghèo khó, tôi tình cờ gặp Tâm – người em họ – sinh viên Y khoa Sài Gòn. Cậu kể về ngôi trường y duy nhất của nước mình, đẹp nhất, có thư viện riêng, căng tin như cho không, lại không tốn học phí – nhờ tài trợ Mỹ. Chỉ có điều, vào được đó phải thật sự xuất sắc. (Tâm sau này chết khi vượt biển).
Tôi nghỉ làm dệt để dốc sức học, quyết tâm thi đậu vào trường Y. Thời gian này quê tôi bị san phẳng trong kế hoạch bảo vệ phi trường Đà Nẵng. Ngay cả mộ cha tôi cũng không còn. Gia đình tôi rời quê, vào hẳn Sài Gòn.
Cuối cùng, công sức của tôi cũng được ghi nhận, tôi thi đậu vào trường Y với niềm hãnh diện của gia đình, và niềm vui sướng tột cùng của bản thân.
Những năm học Y, tôi làm ca đêm tại Bưu điện Trung ương – nơi giữa Dinh Tổng thống và Tòa đại sứ Mỹ. Công việc đơn giản: kéo còi giới nghiêm lúc nửa đêm. Lương thấp nhất, nhưng có máy lạnh, yên tĩnh, được ngủ, và quan trọng nhất – có thời gian học. Sau này, đi khắp đất nước, tôi mới nhận ra nơi đó chính là góc đẹp nhất Việt Nam.
Tôi yêu văn chương, nên tham gia viết báo. Nhà thơ – nhà văn Nguyễn Vỹ, chủ bút tạp chí Phổ Thông và tuần báo Thằng Bờm, đã cấp thẻ ký giả cho tôi và giao tôi làm Thi văn trưởng Thi văn đoàn Thằng Bờm Gia Định. Nhờ viết báo, tôi được nhiều người biết đến, được học bổng, và được giới thiệu làm ở Bưu điện Sài Gòn.
Sau năm 1975, lớp sinh viên chúng tôi vẫn được tiếp tục học, nhưng với nhiều thay đổi trong giáo trình giảng dạy. Dù là sinh viên ưu tú – tuyển chọn qua nhiều vòng cam go – chúng tôi vẫn phải học chính trị, đi thực tế vùng kinh tế mới. Năm 1978, lễ tốt nghiệp của chúng tôi không có áo mũ, không có tiệc, không có người thân tham dự. Chỉ vài người được xướng tên lên sân khấu nhận bằng “xuất sắc”, trong đó có tôi – nhưng thành thật mà nói, tôi không thấy mình hơn gì các bạn.
Tôi được phân công tác làm BS ở Tây ninh. Lúc đó Miên đang chọc thủng biên giới phía Tây, pháo kích qua tới Gò Dầu Hạ, hơn 1/2 các bác sĩ mới không nhận nhiệm sở, trên đường về Tây ninh, lần nữa tôi chưńg kiến cảnh tan nát của chiến tranh. Tôi đã được điều động qua Miên, tới núi Bà Đen, lội sông Vàm cỏ, tham gia công tác đắp đê biên giới và cuối cùng chịu không nỗi đã vượt biển...
Khi chiếc thuyền ra tới hải phận quốc tế mới thấy nó chỉ là một chiếc lá mỏng manh giữa bể cả mông mênh. Thiếu nước, thiếu thức ăn, thiếu thuốc men, thiếu kinh nghiệm để đối đầu với sóng gió,... khiến tình cảnh trên thuyền trở nên hỗn loạn. Sau vài ngày, tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng rên rỉ của người già hoà lẫn với mùi ói mửa, cứt đái, khiến tinh thần của nhiều người trở nên điên loạn. Thêm vào đó, gặp đói khát, một số thành viên bỗng trở nên hung hãn, họ sẵn sàng giết người khác để họ được sống, biến con tàu thành địa ngục.
Khi thuyền chúng tôi được cứu thì nửa số người trên thuyền đã chìm xuống lòng đại dương. Tôi mà một trong số ít người may mắn sống sót, được đưa vào trại tị nạn Songkhla Thailand...
Tôi đến Mỹ với vỏn vẹn một bộ đồ trên người. Việc đầu tiên là lau nhà ở Texas. Cuộc đời tôi cứ trôi dạt không có điểm dừng trong suốt 15 năm, cứ mỗi năm tôi lại chuyển chỗ ở một lần... Khoảng thời gian này hình như tôi bị mất phương hướng, cái gì cũng không biết, chẳng bằng cấp, không tiền bạc, cứ sống theo kiểu “bèo dạt, mây trôi”, đến đâu thì đến.
Cuối cùng, tôi quyết định nộp đơn thi vào làm bưu điện lần nữa – lần này là đưa thư – rồi sau đó quay trở lại đại học. Tôi học lấy bằng Master, trở thành chuyên viên Laboratory Scientist, rồi hoàn tất nội trú Nội khoa tại Đại học Southern California. Từ năm 1991 đến 2021, tôi là bác sĩ nội khoa được cấp phép hành nghề tại California.
Tới năm 2021, tôi đã hành nghề bác sĩ ở California được 30 năm. Tôi nhớ năm 1993, Giáo sư Boyland hỏi tôi muốn làm việc ở đâu tôi đưa cho ông tờ Los Angeles Time tôi đang đọc và chỉ vào dòng chữ “San Diego, the best city to live in California”. Ông khuyên tôi gởi đơn xin về một bệnh viện ở San Diego, rồi nhiệt tình viết thư giới thiệu với Giám đốc Bệnh viện, trước khi tôi vào phỏng vấn xin việc. Sau 2 năm làm cho Sharp Rees Stealy Medical Group, tôi xin nghỉ và ra mở Clinic riêng.
Tháng Mười năm 2022 tôi quyết định về hưu. Trong những năm làm bác sĩ tôi làm theo những nguyên tắc sau:
-
Luôn làm việc theo tiêu chuẩn (standards), không chích thuốc hay truyền nước biển theo thị hiếu của bệnh nhân.
-
Không cho thuốc nếu không phải bệnh. Nếu bệnh nhân muốn đổi bác sĩ khác tôi vui vẻ chuyển hồ sơ.
-
Không gọi mời bệnh nhân trở lại, bệnh nhân phải tự làm hẹn.
-
Cố gắng giúp bệnh nhân tối đa, nhưng không chứng nhận sai sự thật để làm vừa lòng bệnh nhân.
-
Điện thoại mở 24/24, tôi chưa bao giờ không trả lời.
-
Chưa bao giờ từ chối khám vì bệnh nhân không có tiền. Bệnh nhân có thể trả trước ở bàn thư ký, đến khi gặp riêng bác sĩ xin lại tiền khám bệnh đều được chấp nhận. Có nhiều trường hợp chúng tôi tìm thuốc miễn phí và tìm bác sĩ chuyên môn khám giúp cho bệnh nhân.
-
Khi bảo hiểm từ chối trả tiền khám bệnh, chúng tôi chỉ yêu cầu bệnh nhân trả tiền khám một lần duy nhất, không đòi lần hai. Nếu bệnh nhân nghèo, không có tiền trả, chúng tôi sẵn sàng bỏ qua.
-
Tất cả nhân viên đều có tiền hưu trí, người nhận cao nhất lên đến năm trăm ngàn đô la Mỹ.
-
Theo hợp đồng, tất cả nhân viên đều được lưu dụng sau khi chúng tôi về hưu, bàn giao phòng mạch cho bác sĩ khác.
Nhìn lại hành trình của đời mình, tôi tin rằng để thành công, cần ba điều:
- May mắn: Tôi sống sót qua chiến tranh, biển cả và số phận.
- Trung thực: Sống tử tế, chân thành với mọi người.
- Quyết tâm: Làm một việc đến nơi đến chốn, không bỏ cuộc.
Mỗi giai đoạn chỉ nên chọn một mục tiêu. Ham quá nhiều điều cùng lúc thường không đi đến đâu, vì xung quanh ta, luôn có rất nhiều người giỏi hơn đang cố gắng cùng một lúc.
Năm 2006 và 2010, tôi về thăm lại quê xưa. Sau 41 năm, dòng sông Thu Bồn, nơi từng ghi dấu tuổi thơ của tôi chỉ còn là con rạch nhỏ. Xóm cũ giờ là bãi đất hoang với vài đụn cát cô đơn và đám sậy lưa thưa. Quê hương đó giờ chỉ còn trong ký ức, như giấc mộng buồn.

Dr. Sony Vo: A tale of Unyielding Determination
TRƯỜNG AN
As retold by Dr. Võ Thanh Sơn – Sony Vo
I was born along the banks of the Thu Bồn River, which flows from the peak of Mount Ngoc Linh, rising more than 2,500 meters high. Its serene beauty, both grand and poetic, helped shape who I am. That landscape gave me more than childhood memories; it instilled in me a dream to serve and a steel-like will to endure.
In 1965, the Vietnam War entered its most brutal phase. My hometown, Quảng Nam, became one of the bloodiest battlefields in Central Vietnam, echoing with relentless gunfire day and night. I was just twelve years old.
One tragic afternoon, a boy from a neighboring village was shot right outside our home. His blood staining the ground—an image that deeply frightened my mother that I could be next. Quietly and swiftly, she arranged for my older brother to smuggle me out of the war zone—first to Đà Nẵng, then by plane to Sài Gòn.
Just a few weeks later, after helping me find shelter and a simple job, my brother rushed back home—he couldn’t leave our mother to face the war alone. Days later, I received news that he had died on the road back to our village. I was devastated beyond words. I pictured my mother collapsing in anguish. Her heart must be broken beyond repair, mourning her child on the very soil that has raised us.
Not long after, she sent me a simple life-altering message: “No matter what happens, do not come back. Move forward, at all costs.” It was not just advice—it was her sacrifice. She would rather live in loneliness than bury another child.
From that moment, my childhood ended.
In the Go Vap district of Saigon, I began my days before 5 AM, weaving fabric until nightfall. Exhausted and alone, I often wept quietly beside my loom. One Sunday afternoon, I stumbled upon a sign at Tan Phuong School announcing night classes. It felt like a lifeline. I enrolled immediately. Studying offered me not only hope of escaping poverty but a way to keep my mind from drowning in sorrow.
I threw myself into my studies with an almost desperate thirst for knowledge. By day I worked, by night I went to school, and late at night I studied under a dim light, careful not to disturb others. I lived like the shuttle of a loom—moving endlessly in pursuit of something better.
I distanced myself from distractions—romantic or political. I learned early that for every person who lifts you up, there are others who will try to pull you down. I chose gratitude over bitterness. Perseverance over complaint.
By 1967, I had completed secondary school. I passed the first part of the Baccalaureate in 1969 and the second part in 1970, each with high marks. But I had no money and no clear path to higher education—then fate intervened again.
A cousin named Tâm, a medical student, told me about the national medical university in Saigon. It was the most prestigious in the country, fully funded by American aid, it had a library, nearly free meals and no tuition—but it was fiercely competitive. (Tâm would later perish at sea while fleeing Vietnam.)
Inspired, I quit my weaving job to study full time, determined to make it. Around this time, my village was leveled as part of a military operation to secure Da Nang airport. Even my father's grave was destroyed. My family joined me in Saigon soon after.
Against all odds, I passed the entrance exam. I became a medical student. My family was proud beyond words. I had never felt such joy.
To support myself, I took a night shift job at the Central Post Office, located between the Presidential Palace and the U.S. Embassy. My task was simple: sound the curfew siren at midnight. The pay was low, but the job offered quiet, air-conditioning, rest, and most importantly—time to study. Years later, after traveling much of the country, did I realize that it [the Central Post Office] was one of the most beautiful corners of Vietnam.
My passion for literature led me to journalism. Poet and editor Nguyễn Vỹ, founder of Phổ Thông magazine and Thằng Bờm weekly, gave me a press card and appointed me head of the Thằng Bờm Gia Định Literary Group. Thanks to this work, I received scholarships and was recommended for a job at the Saigon Post Office.
After 1975, our medical education continued, though the system changed drastically. Even top students like us—selected through intense rounds— were sent to study political theory and do mandatory fieldwork in the New Economic Zones. In 1978 we graduated without caps, gowns, parties, or family. Only a few were called to receive “outstanding” diplomas—my name was among them, though I never believed I was better than my peers. We had endured and survived the same storms.
I was assigned to Tây Ninh, near the Cambodian border, where the Khmer Rouge had begun attacking. Artillery reached Gò Dầu Hạ. Over half the new doctors refused to go. On the way there, I once again witnessed the devastation of war.
I was later deployed to Cambodia—climbed Bà Đen Mountain, crossed the Vàm Cỏ River, and helped construct border embankments. Eventually, the hardship became unbearable. So, I made a decision that changed my life: I escaped by boat.
Only when we reached international waters, the grim truth sank in--our boat was no more than a fragile leaf adrift on a vast ocean. We had no water, no food, no medicine. After a few days, the cries of children and the groans of the sick mixed with the stench of vomit, urine, and waste, drove many into madness. Starvation drove some into savages, willing to kill for even the slimmest chance of survival. Violence erupted. The boat becomes a floating nightmare.
When we were rescued, half of us had died. I was among the few who survived. I was sent to the Songkhla refugee camp in Thailand.
I arrived in the United States with nothing but the clothes on m back. My first job was mopping floors in Texas. For the next 15 years, I was a drifter without direction--no skills, no degree, no money, and no future in sight.
Eventually, I applied for a job in the U.S. Post Office, delivering mail. I saved what I could, returned to college, earned a Master’s degree, became a Laboratory Scientist, and completed an Internal Medicine residency at the University of Southern California. From 1991 to 2021, I served as a licensed physician in California.
In 1993, I told my professor, Dr. Boyland, that I wanted to live in San Diego. I pointed to a line in the Los Angeles Times that read, “San Diego: the best city to live in California.” He smiled, encouraged me to apply, and wrote a glowing recommendation letter.
I joined Sharp Rees-Stealy Medical Group for 2 years and later opened my own clinic.
I retired in October 2022 after three decades of service. I practiced medicine by a few simple principles:
-
Always practice with integrity. No unnecessary treatments just to satisfy patients.
-
Never prescribe medicine unless truly needed.
-
Patients make their own appointments—I never chased anyone.
-
Offer help where I could, but never falsify documents.
-
My phone was open 24/7—I always answered.
-
I never denied care to anyone who couldn’t pay.
-
If insurance rejected a claim, I never asked a second time. If a patient was poor, we let it go.
-
Every staff member had a retirement plan—some received as much as $500,000.
-
When I retired, all employees kept their jobs under the new physician.
Looking back, I believe success is built on three core values:
-
Luck – I survived war, the sea, and fate itself.
-
Integrity – I lived with sincerity and kindness toward others.
-
Determination – I pursued my goals without giving up.
-
In life, it’s best to focus on one goal at a time. Chasing too many dreams often leads nowhere—especially in a world where so many are just as capable and working just as hard.
In 2006 and again in 2010, I returned to my childhood village. After 41 years, the mighty Thu Bồn River had shrunk to a narrow stream. The land where I once played was now barren with a few lonely sand dunes and patches of reed. That home now lives only in memory—like a beautiful, sad dream.