
Trần Thị Trân
& Phở King Restaurant
Trước khi sang Mỹ, bà Trần Thị Chân từng là giáo viên tiểu học tại Việt Nam và sau này bén duyên với nghề bếp. Năm 1994, bà cùng gia đình định cư tại Hoa Kỳ. Sau nhiều năm làm việc trong các nhà hàng ở Seattle và Orange County, bà cùng chồng mở tiệm Phở King vào năm 2007 tại Little Saigon, San Diego. Với món phở đậm đà và hủ tiếu Nam Vang đặc sắc, Phở King nhanh chóng trở thành địa chỉ quen thuộc, mang đậm dấu ấn ẩm thực Việt đến với cộng đồng người Việt và thực khách địa phương.
Mrs. Trần Thị Chân was an elementary school teacher in Vietnam before discovering her passion for cooking. In 1994, she and her family resettled in the U.S. After years working in restaurants across Seattle and Orange County, she and her husband opened Phở King in Little Saigon, San Diego, in 2007. Known for its flavorful phở and signature hủ tiếu Nam Vang, the restaurant quickly became a beloved local favorite. Through her culinary talents, Mrs. Chân has preserved and shared the richness of Vietnamese cuisine, becoming a cultural ambassador and a cherished contributor to the Vietnamese American community.
Ghé Phở King, thưởng thức tô ‘Đệ nhất
hủ tiếu Nam Vang’
By VŨ ĐÌNH TRỌNG

Nếu ở Quận Cam, nhiều thực khách vào Phở Tàu Bay Lý Thái Tổ nổi tiếng, rồi nhất định kêu cho được dĩa bánh cuốn tráng tay, thì ở San Diego, cũng có rất nhiều người đến tiệm Phở King chỉ để ăn cho được tô “Đệ nhất hủ tiếu Nam Vang.”
Đây là câu chuyện... không lạ. Chuyện lạ ở chỗ, danh xưng “Đệ nhất hủ tiếu Nam Vang” là do thực khách đặt, và yêu cầu chủ quán phải viết như vậy để giới thiệu. Thế nên, hành trình mở tiệm bán phở, nhưng nổi danh nhờ món hủ tiếu của bà Trần Thị Chân chủ quán, xem ra cũng thú vị lắm, dù không ít gian nan.
Bà Chân kể, hồi còn ở Việt Nam mấy chục năm trước, bà chuyên nghề “gõ đầu trẻ” (giáo viên tiểu học), chứ không biết buôn bán là gì đâu. Sau năm 1975, lương giáo viên không đủ sống, bà bỏ dạy ra ngoài tập tành buôn bán để nuôi cả một đàn con, năm sáu đứa.
Buôn bán thời “tranh tối tranh sáng” đâu có dễ, phải biết chụp giựt, ma mãnh, nên xuất thân từ giáo viên như bà Chân ra ngoài buôn bán thì chỉ có “làm mồi” cho bọn gian manh. “Đã vất vả, còn bị lừa lên lừa xuống. Mà toàn bị người quen lừa nữa mới đau chứ,” bà tâm sự.
Thời gian sau, may mắn sao mà ông Phú (chồng bà) được một ông người Campuchia gốc Hoa dạy cho nghề nấu hủ tiếu Nam Vang. Học xong ông chỉ cho bà, thế là hai vợ chồng mở một quán hủ tiếu nhỏ ở chợ Trung Chánh (Hóc Môn, Sài Gòn). Chắc cũng ngon, lại vừa túi tiền dân lao động nên tiệm khá đắt khách. Nhờ đó, thời gian sau, vợ chồng bà gom góp được ít tiền mua miếng đất ngoài mặt tiền, dựng tiệm cho đàng hoàng rồi ra đó bán.
Tới khoảng năm 1980, tự dưng nhiều người bỗng “thèm” phở, không chịu ăn hủ tiếu nữa. Đang ở thế “tiến thoái lưỡng nan,” bỗng có người bà con biết nấu phở, sẵn sàng truyền “bí kíp” cho bà Chân, thế là bà đi học, rồi vừa bán hủ tiếu, vừa bán phở.
Đến năm 1994, vợ chồng bà Chân được con bảo lãnh sang Mỹ. Bà mừng lắm, vì cho rằng đấy là cơ hội tốt để bỏ nghề nấu phở, nấu hủ tiếu, vì quá vất vả, phải thức khuya, dậy sớm, chẳng được nghỉ ngày nào.
“Nhưng mà mình muốn là một chuyện, trời không muốn mình toại nguyện là một chuyện. Nó như cái nghiệp phải mang vậy,” bà Chân kể. “Hồi mới qua chỉ có làm cho nhà hàng mới dễ kiếm việc thôi, chứ biết làm ở đâu bây giờ! Thế nên tôi lại tiếp tục... nấu, nhưng chân ướt chân ráo thì thì phải làm công trước.”
Theo lời bà Chân kể, bà làm bếp cho nhiều nhà hàng, từ thành phố Seattle (tiểu bang Washington), về Oregon, cho đến Quận Cam (California). Sau đó, bà còn nhận “build” tiệm ăn cho người ta.
Bà cho biết: “Khi nhận tổ chức tiệm cho người ta, mình phải chịu trách nhiệm về những món trong thực đơn, nghĩa là phải biết nấu mấy chục món để hướng dẫn lại cho họ. Thí dụ như nấu cơm thì phải biết làm “cơm chỉ,” nấu xôi, chè,... Bán bánh mì thì phải biết làm thịt nguội, pate, nước sauce,... Ngoài ra, mình còn phải biết tổ chức, sắp xếp nhân viên, người nào việc đó. Tất cả mọi thứ đều phải biết làm hết, nên cực lắm.”
Một thời gian sau, vợ chồng bà Chân muốn tìm một tiệm để làm chủ, xem như “trạm dừng chân cuối cùng,” vì đi làm công cho người ta, xem ra cực hơn làm chủ. Ông Phú giúp vợ đi tìm khắp nơi, kể cả qua tiểu bang New Mexico, Arizona xem có miếng “đất lành” nào cho “chim đậu” không, nhưng cuối cùng ông bà cũng trở về tay trắng.
Cuối cùng, Trời thương kẻ hiền lương, sau bao năm bôn ba, vợ chồng bà chọn San Diego là nơi dừng chân cuối cùng.
Bà kể: “Hồi đó tôi bị bệnh nhức đầu, nhức dữ lắm... nhưng cứ trở về California thì nó lại hết. Thế nên vợ chồng tôi quyết định ở lại đây, tuy nhiên để sang được một cái tiệm ăn ở Quận Cam cũng khó, vì giá ở đó mắc quá. Tình cờ con gái tôi nói sao không xuống San Diego tìm hiểu, vì giá sang tiệm ở dưới đó rẻ hơn trên này. Thế là chúng tôi xuống đây tìm hiểu, rồi gắn bó với nó từ năm 2007 đến nay.”
***
Phở King ra đời trong hoàn cảnh như thế. Có lẽ mộng ước của vợ chồng bà Chân là muốn món phở của minh “vang danh thiên hạ,” hay “làm vua một cõi” nên mới đặt tên tiệm là Phở King. Ông Phú giải thích, do phở là món ăn phổ thông, nhiều người biết, nên ông đặt tên quán như thế để lôi kéo khách bản địa vào ăn, tên quán cũng dễ nhớ cho họ.
Dù sao thì bà Chân cũng tự tin về món phở của bà hơn món hủ tiếu. Điều bà không ngờ là hai năm sau, mấy người khách thân quen của tiệm một mực đòi ông Phú phải giới thiệu món hủ tiếu Nam Vang ra mặt tiền để cho thiên hạ biết ở đây có bán hủ tiếu “ngon số một.” Họ “ép” phải ghi chữ “Đệ nhất hủ tiếu Nam Vang” mới chịu.
Bà Chân nhớ lại: “Cho tới bây giờ món hủ tiếu của tôi rất nổi tiếng ở đây. Người ta biết đến và khen nhiều lắm, điều này làm tôi nhớ người khen đầu tiên. Đó là nhạc sĩ Trúc Hồ.”
Số là con trai lớn của vợ chồng bà Chân là ca sĩ Nguyên Khang. Hồi còn ở Quận Cam, cứ mỗi cuối tuần bà hay nấu phở và hủ tiếu Nam Vang cho con cái và bạn bè Nguyên Khang tới ăn. Bà Chân kể: “Sau khi ăn nhiều lần, nhạc sĩ Trúc Hồ có nói với tôi: ‘Cháu không dám nói về phở, nhưng quả thật hủ tiếu cô nấu không ai sánh bằng.’”
Dù được nhạc sĩ Trúc Hồ khen, nhưng bà Chân không dám tự tin như thế. Mãi sau này, khi nhiều người quay lại Phở King chỉ để ăn hủ tiếu thì bà mới dám vui.
Chỉ có một người không vui, là ca sĩ Nguyên Khang. Bà kể: “Hồi vợ chồng tôi mở tiệm Phở King, Nguyên Khang biết được nó buồn và giận chúng tôi lắm. Nó nói bố mẹ lớn tuổi rồi tại sao ôm cái nhà hàng chi cho khổ vậy. Mười mấy năm ở Việt Nam đã làm nhà hàng cực khổ rồi, sao qua đây còn làm nữa chi vậy. Ừ! Tôi biết nó thương bố mẹ nên mới nói thế, nhưng không bán quán, tôi biết làm gì bây giờ?”
Bà Chân vừa thương con, vừa buồn vì Khang không hiểu nỗi lòng của bà. Bà nhớ lúc đó bà nói với con trai:“ Mẹ làm hủ tiếu cho khách ăn, người ta khen mẹ, người ta cảm ơn mẹ cũng như khi con lên sân khấu con hát, người ta vỗ tay khen con. Mẹ được khách khen, cũng giống như khi con được khán giả vỗ tay vậy đó!”
Sau lời tâm tình của bà, Nguyên Khang mới hiểu và thương mẹ nhiều hơn, “nó không còn ‘càm ràm’ tôi nữa,” bà Chân chia sẻ trong ánh mắt hạnh phúc.
Giờ thì có lẽ cả gia đình đã hết lo lắng cho sức khỏe của ông bà, vì bà đã giao tiệm lại cho vợ chồng người con trai thứ năm - Charlie Trần - điều hành, kể cả làm đầu bếp chính. Bà cho biết:
“Cũng may là trong mấy đứa con, có Charlie đồng ý tiếp quản ‘gia tài của Mẹ,’ chứ nếu không có thì tôi chẳng biết làm sao. Tôi dạy cho Charlie tất cả những gì tôi biết, truyền lại cho con lòng yêu nghề và nhất là quan niệm về ẩm thực của tôi: Chất lượng món ăn chỉ tăng, chứ không được giảm vì bất cứ lý do gì, kể cả khi vật giá leo thang, phải cố gắng hạn chế chi tiêu chứ không được giảm chất lượng.”
Bà dặn con, nếu có lỗ thì cũng phải chịu. Vật giá leo thang, khách hàng cũng biết, mình phải chịu đựng một thời gian rồi tăng giá từ từ chứ không bắt khách chịu liền. Mình phải hy sinh trước, rồi khách hàng sẽ hiểu và thông cảm. Điều quan trọng là không để khách thất vọng về vấn đề nấu nướng của mình.
“Làm nghề này phải biết nghe lời phê bình của thực khách. Đừng xem thường điều này, vì dù nhiều người không biết nấu, nhưng lại biết thưởng thức, biết phê bình. Mình phải biết lắng nghe để sửa đổi,” bà Chân tự hào cho biết. “Giờ thì tôi chỉ mong tiệm luôn được nhiều người ủng hộ, con tôi giữ được chất lượng món ăn để khách hàng thưởng thức trọn vẹn mỗi khi đến đây, là tôi toại nguyện rồi.”
Có lẽ nhờ biết lắng nghe và chịu khó sửa đổi, nên chất lượng các món ăn của Phở King luôn làm vừa lòng khách, kể cả những người khó tính.

Phở King and the Quiet Legacy Behind the "Number One Hủ Tiếu Nam Vang"
By Vũ Đình Trọng
In San Diego, tucked modestly among a row of local eateries, stands Phở King—a Vietnamese restaurant that has gained a loyal following not for its name, but for the dish many customers now call the “Number One Hủ Tiếu Nam Vang.”
This title wasn’t a marketing gimmick. It was bestowed by the customers themselves, who insisted the dish be recognized and advertised. And behind that beloved bowl of noodles is a woman whose journey speaks to the heart of the Vietnamese immigrant experience: Mrs. Trần Thị Chân, a former elementary school teacher in Vietnam who became a culinary torchbearer in United States.
Before 1975, Mrs. Chân taught school in Vietnam. But after the war, with teacher salaries reduced to a pittance, she was forced to leave the classroom to support her large family. Entering the world of street vending during uncertain times, she struggled—not just with the grind of survival, but with the betrayal of being taken advantage of by those she trusted.
“I didn’t know how to hustle,” she recalls. “I was a teacher, not a trader. But I had to learn, or my children wouldn’t eat.”
Her fortunes began to shift when her husband, Mr. Phú, learned to make hủ tiếu Nam Vang from a Chinese-Cambodian acquaintance. Together, they opened a humble noodle stall in Hóc Môn District. Thanks to the quality and affordability of their food, it soon gained a devoted local clientele.
When phở became more popular in the 1980s, a relative offered to teach her the secrets of that dish too. And so, the couple adapted—offering both phở and hủ tiếu from their sidewalk stand. This spirit of flexibility, humility, and learning would come to define everything she built.
In 1994, Mrs. Chân and her husband immigrated to the U.S., hoping to leave behind the exhausting grind of street food. But in United States, opportunities were particularly limited because of the language barrier. Like many first-generation Vietnamese refugees, they found themselves back in the kitchen—cooking in restaurants from Seattle to Orange County to Oregon.
“I thought I could finally rest,” she laughs. “But God had other plans.”
She began organizing kitchens for others—designing menus, training staff, and managing operations. Her hands knew how to do it all: cooking sticky rice and chè, preparing pâté for bánh mì, setting prices, organizing workers. But eventually, she and her husband longed to open something of their own again. After several failed attempts to buy a business in other states, they found their answer in San Diego in 2007.
Phở King was never intended to become famous for hủ tiếu. The name, chosen by her husband, was a cheeky way to attract non-Vietnamese customers and spotlight the more familiar phở. But over time, it was the hủ tiếu—Mrs. Chân’s specialty from her Saigon days—that people kept returning for.
It was musician Trúc Hồ, a longtime friend of the family, who first declared her hủ tiếu Nam Vang unmatched. Her son, singer Nguyên Khang, invited friends every weekend to sample his mother’s food, and it quickly built a cult following. Eventually, loyal customers demanded the menu boast the dish’s proper title: “Đệ nhất hủ tiếu Nam Vang”—The Number One Phnom Penh Noodle Soup.
Even though Mrs. Chân felt more confident in her phở, it was the hủ tiếu that stole the spotlight. And soon, Phở King became known not just for its clever name—but for its unforgettable flavor and heart.
Mrs. Chân’s story resonates because it captures the quiet strength of first-generation immigrants—those who had no choice but to reinvent themselves, and in doing so, preserved an entire culture. She carried forward culinary traditions not merely as food, but as expressions of history, care, and pride. In sacrificing stability and rest, she created opportunities her children never would have otherwise known. The restaurant she built was not just a livelihood—it became a place of comfort, memory, and cultural connection for the Vietnamese diaspora. And in passing down her recipes, she also passed down her values: a commitment to quality, integrity, and humility in every dish.
And perhaps most beautifully, her story reflects the deep intergenerational bonds of many Vietnamese families. When her son Nguyên Khang protested that his aging parents were working too hard, she gently explained:
“When I cook and customers thank me, that’s the same as when they clap for you after a performance. That’s what fills me with joy.”
It was a moment of understanding between two generations—one that makes her journey all the more meaningful.