
Nguyễn Hồi Thủ
Nhà thơ, dịch giả Nguyễn Hồi Thủ (tên thật là Nguyễn Khôi Minh), sinh năm 1949 tại Hiệp Hòa, Hà Bắc. Ông nhận được học bổng đi Nhật Bản, Tây Ban Nha, rồi sang Pháp vừa học vừa làm. Sau sáu năm sinh sống và làm việc tại Úc, ông định cư tại Mỹ cho đến nay. Ông có tám tập thơ và dịch hơn 20 quyển sách, trong đó có các tác phẩm của Cao Hành Kiện, người Trung Quốc đoạt giải Nobel văn học lần thứ 97. Thơ và sách dịch của ông được nhiều độc giả yêu thích. Ông đi nhiều nơi trên thế giới, thông thạo nhiều thứ tiếng, nhưng luôn trăn trở về ngôn ngữ mẹ đẻ - tiếng Việt, của thế hệ trẻ người Mỹ gốc Việt.
Poet and translator Nguyễn Hồi Thủ (birth name: Nguyễn Khôi Minh), born in 1949 in Hiệp Hòa, Hà Bắc, has lived and studied across Japan, Spain, France, and Australia before settling in the U.S. He has published eight poetry collections and translated over 20 books, including works by Nobel laureate Gao Xingjian. A gifted polyglot and global traveler, he remains deeply devoted to preserving the Vietnamese language. His literary contributions inspire generations, and his ongoing concern for Vietnamese heritage—especially among Vietnamese American youth—makes him a cultural bridge and a vital voice in the Vietnamese diaspora.
Nhà thơ, dịch giả Nguyễn Hồi Thủ - Còn đó nỗi đau nửa thế kỷ xa quê
By An Bình

Nhà thơ, dịch giả Nguyễn Hồi Thủ có tên thật là Nguyễn Khôi Minh.
Ông có một bộ óc thông minh như chính tên của mình, khi có thể sử dụng được nhiều thứ tiếng. Năm 1967, lúc 23 tuổi, do nhận được học bổng chuyên ngành về chính trị, ngoại giao, ông rời Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông, sang Nhật Bản. Sau đó ông đi học tiếp ở Tây Ban Nha. Vào năm 1971, ông sang Pháp, vừa đi làm, vừa đi học và lấy được bằng tiến sĩ luật. Ông sống tại Pháp được gần 30 năm thì sang Úc ở sáu năm, sau đó qua Mỹ vào năm 2008.
Ở San Diego, một trong những kỷ niệm ông nhớ rõ nhất là sự kiện San Diego có tên bảng chỉ đường đến Little Saigon trên xa lộ 15 vào khu vực đường El Cajon, nơi có nhiều người Việt Nam làm ăn và sinh sống, và cũng là “Khu văn hóa và thương mại Little Saigon.”
“Thật ra tôi đã đi rất nhiều nơi trên thế giới, năm 1973 tôi cũng qua Mỹ rồi, ở Maryland, rồi qua San Jose, California,” nhà thơ kể. “Nhưng tôi chọn San Diego, vì đây là nơi có môi trường và khí hậu quá tốt, nên tôi quyết định dừng chân ở nơi này.”
Chợt nhìn lại, nhà thơ không khỏi bùi ngùi, khi ở tuổi “bát thập đắc hi hỉ” mà ông vẫn đang… lang thang ở ngoại quốc, luôn phải nhìn về đất nước từ nửa vòng trái đất. Gần 40 năm qua, ông chưa về.
Ông làm thơ khi còn trẻ. Năm 1971, khi 27 tuổi, ông sáng tác bài thơ Chợt Nhớ, rất dễ thương:
“Em ở sát nhà tôi
Cách nhau bờ dậu thấp
Mẹ em bán cau, bán thuốc
Chợ Đầm xa vời vợi
Đường đi cát trắng trùng điệp nắng
Mà sao về chợ vẫn cười
Hương ơi
Bên giếng nhà em có bụi chuối bồ hương
Quanh năm bóng mát sang vườn nhà tôi
Nhà tôi lài lí thơm về tối
Tôi bỏ ra đi năm mười tuổi
Mà sao còn nhớ tóc em dài...
(1971)
Không chỉ sáng tác những bài thơ tình, thơ của nhà văn Nguyễn Hồi Thủ còn vang vọng tiếng thét cuồng nộ, nỗi căm hận trước tội ác của nhà cầm quyền cộng sản. Thơ của ông chất chứa những giọt lệ xót thương cho một đất nước bị tụt hậu cả trăm năm, cùng thân phận người Việt dưới chế độ độc tài.
Năm 2023, ông ra mắt tập thơ “Và bây giờ” được ông sáng tác “trong sự cô độc” - sản phẩm duy nhất ông tự làm một mình. “Đã sinh ra ở đất nước Việt Nam, không nhiều thì ít, đều bị ảnh hưởng, thậm chí cả cuộc đời còn bị vùi dập và dày vò,” nhà văn nói.
Trong tập thơ này, người ta có thể đọc được nỗi uất ức, buồn tủi của một người con Việt, gần nửa thế kỷ phải sống xa quê hương mình, qua bài thơ “Tôi buồn và tôi căm thù.”
“Không có gì làm cho tôi buồn hơn
Khi thấy đất nước mình tụt hậu cả trăm năm
Không có gì làm cho tôi nhục hơn
Khi thấy người Việt mình bị khinh bỉ ngay trên đất nước mình
Không có gì làm cho tôi đau lòng hơn khi thấy những con người Việt Nam bất khuất
đang bị chúng giết hại hay bắt tù đày
Không có gì làm cho tôi căm giận hờn
Khi thấy cả một xã hội vô cảm
Và cả một dân tộc như một đống cát rời
Không có gì làm tôi bất bình hơn
Khi thấy bọn quan tham lại có thể ngang nhiên hoành hành vơ vét
với sự bảo kê của cả một bộ máy đảng và nhà nước
Không có gì làm cho tôi kinh tởm hơn
Khi thấy từng lớp dân oan bị chúng đem máy cầy cán, bắn giết, mổ bụng
Nhưng rồi bây giờ đây cái gì làm cho tôi căm thù hơn cả bọn bành trướng phương Bắc, các bạn có biết không?
Đó chính là bọn Việt gian bán nước trong cái đảng cộng sản đang cầm quyền ở Hà Nội hiện nay.
(2019)
Cùng với nhiều bài thơ khác trong các tập thơ như: Bức tường rêu; Cánh chim bay; Chuỗi hạt; Diaspora; Nghĩ về nhau; Những vì sao trong giòng Ngân Hà; Sợi tóc nhỏ;… thơ văn và các tác phẩm dịch thuật của của ông được đăng rất nhiều trên các trang mạng như Hợp lưu (Mỹ), Chim Việt cành Nam (Pháp) và được nhiều độc giả yêu thích.
Trong số những tác phẩm đã xuất bản của ông, ngoài tập thơ Chợt nhớ, còn có Tiếng kêu thương; Ông thợ giày và cô con gái (dịch phẩm từ nguyên bản tiếng Trung của Cao Hành Kiện); Quả đất quê hương (dịch từ tiếng Pháp của Anne Brigitte Kern, Edgar Morin),…
Với 20 đầu sách dịch, nhiều người biết về ông qua các quyển “Người Trung Quốc xấu xí” của tác giả Bá Dương; tác phẩm “Xích lại gần với hiện thực” của tác giả Cao Hành Kiện - người Trung Quốc đầu tiên được giải Nobel Văn Học lần thứ 97, do Nhà xuất bản Win Visions tại San Jose in xong vào năm 2021.
Dịch giả Nguyễn Hồi Thủ chọn dịch tác phẩm của một tác giả người Trung Quốc không những không có tên tuổi ở ngoại quốc, ở Pháp, mà cả trên quê hương ông. Dịch giả viết trong phần giới thiệu tác phẩm Xích lại gần với hiện thực:
“Tại sao trước tác của Cao Hành Kiện lại được xem là có tầm cỡ thế giới? Có lẽ không chỉ vì tấm lòng thành thật, không khoan nhượng, không hiềm thù, khi nhà văn kể lại những gì xảy ra cho ông, dưới mắt ông, dưới tư thế một tác nhân chính trị, vừa là nạn nhân, vừa là nhân chứng của thời cuộc Trung Quốc. Nhưng thêm vào đó, ngoài việc làm chủ được những thể loại và kỹ thuật viết mới của phương Tây qua học hỏi và thử nghiệm để đạt đến được một hình thức tân kỳ, táo bạo, Cao Hành Kiện còn biết dựa lưng vào nền văn hóa lớn của Trung Quốc để làm cái phông tâm linh cho mình.”
Sau đó, ông còn có thêm bộ sách “Bảy trí thức tất yếu cho nền giáo dục tương lai” - sách dịch của tác giả Edgar Morin; Dòn cười tươi khóc – ca dao tục ngữ và truyện tiếu lâm mới, Những đêm dài – tập truyện ngắn,…
Nhà văn cho biết, ông vẫn nói chuyện tiếng Việt với cộng đồng người dân ở San Diego, nhưng con của ông thì không. Ông nói con của ông đều sinh sống ở xa, người San Francisco, người tận bên Úc, Thụy Sỹ, Anh,… Ai cũng nói được tiếng Việt, nhưng không rành, thậm chí lâu ngày không dùng, có lẽ cũng… quên mất rồi.
Ông tâm sự: “Lúc tôi qua Nhật, tôi học và dùng tiếng Nhật, qua Tây Ban Nha thì dùng tiếng Tây Ban Nha. Qua Pháp thì học tiếng Pháp, qua Anh và Úc thì học tiếng Anh. Đại khái là lúc nào tôi cũng phải dùng ngôn ngữ của ‘người ta.’”
Nhìn chồng sách của ông đã được dịch sang tiếng Việt, dịch giả lắc đầu: “Bây giờ thế hệ sau này, có ai đọc sách in nữa. Thời của tôi, khi dịch sang tiếng Việt, nhiều người đọc lắm. Bây giờ họ đọc trên mạng, in ra cũng không bán được.”
Tuy vậy, ông bày tỏ niềm vui khi thấy cộng đồng người Việt còn tổ chức được các lễ hội truyền thống Việt, như Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu,… các nhà thờ, chùa, có dạy tiếng Việt cho trẻ em, là nơi để thế hệ trẻ học tiếng mẹ đẻ, để không quên cội nguồn.
Nhưng ông lại buồn, vì thấy tiếng Việt bây giờ lai tạp đủ thứ. Nếu cộng đồng người Hoa, người Đại Hàn có trường tiểu học để dạy cho con họ học tiếng mẹ đẻ, còn trẻ em Việt chỉ được học trong chùa, nhà thờ,… và nếu về nhà không được cha mẹ dạy dỗ thêm để các em không quên, thì tiếng Việt sẽ bị mai một.
Ông nói người Việt ở đâu cũng hay chia rẽ, ít khi thật tình giúp đỡ lẫn nhau, nên cộng đồng người Việt nơi xứ người còn phải phấn đấu nhiều mới tạo nên sức mạnh. Đó sẽ là một quá trình, không phải một sớm một chiều mà có được.
***
50 năm kể từ khi đất nước rơi vào tay cộng sản, ông vẫn mong cùng với một số bạn bè của mình tổ chức nên một hiệp hội (foundation) đấu tranh cho hàng trăm tù nhân lương tâm, tù chính trị, đang còn bị giam cầm trong nước. “Nhà cầm quyền thả người này, lại bắt người khác. Con người cứ bị coi con quân bài,” ông nói. “Tôi chưa biết sức mình tới đâu, nhưng vẫn cố gắng, phải tìm mọi cách để giúp cho các tù nhân được sống.”

Nguyễn Hồi Thủ: A Poet in Exile, Carrying Half a Century of Homeland Longing
An Bình
Poet and translator Nguyễn Hồi Thủ, born Nguyễn Khôi Minh, has spent a lifetime navigating borders—of language, country, and memory. Though physically far from Vietnam for more than 50 years, his work remains a powerful link to the homeland for generations of Vietnamese in the diaspora.
Nguyễn Hồi Thủ left Saigon in 1967 at the age of 23, having earned a scholarship to study political science and diplomacy in Japan. He later pursued further education in Spain and France, eventually earning a doctorate in law while working full-time in Paris. After nearly 30 years in France, he moved to Australia for six, and finally settled in the United States in 2008.
Now in his 80s, living in San Diego, he still speaks Vietnamese every day, even if his children—scattered across San Francisco, Australia, Switzerland, and the UK—have begun to lose their fluency.
“I’ve always had to speak the language of others,” he says.
“But in my soul, it is always Vietnamese.”
Nguyễn Hồi Thủ’s poetry and translations have served as a bridge between Vietnam and the Vietnamese diaspora. His writing gives form to the longing, identity, and cultural dislocation that so many Vietnamese overseas quietly carry. Whether romantic or political, his work reflects a soul in transit—but never unmoored.
“It’s been nearly 40 years since I last returned to Vietnam,” he shares. “No matter where I live, I’m always looking homeward from half a world away.”
He recalls the day San Diego officially installed a freeway signs officially naming the Little Saigon Cultural and Commercial District near El Cajon Boulevard. For Nguyễn Hồi Thủ, that small marker was deeply symbolic: a place to be seen, to belong, even if far from home.
Nguyễn Hồi Thủ began writing poetry in his youth. While his early works evoke the innocence of youth and the tenderness of first love—like his 1971 poem Chợt Nhớ (Sudden Remembrance)— his later works burn with sorrow and outrage. In poems like “I Am Saddened, and I Am Filled with Hatred,” he confronts the legacy of authoritarianism in Vietnam with unflinching honesty.
“Nothing saddens me more
Than seeing my country fall a century behind
Nothing shames me more
Than seeing our people insulted on their own soil...
But what enrages me more than even the imperialists to our north
Is the traitorous regime in Hanoi—
Vietnamese in name, yet heartless in action.”
Through such poems, he joins the ranks of writers who see literature not as refuge, but as resistance. His work documents injustice, amplifies silenced voices, and preserves memory in a way that transcends censorship and time.
His literary reaches far beyond original poetry. Over the past decades, he has published more than 20 volumes of translated work across Vietnamese, French, Chinese, and English, bringing Vietnamese readers closer to international voices—including Gao Xingjian, the first Chinese Nobel Laureate in Literature.
In his introduction to Gao Xingjian’s work, he writes:
“Gao’s work matters not only because of its political courage, but because it fuses bold modern technique with deep spiritual roots in Chinese culture. It is literature that holds both memory and morality.”
By translating these works, Nguyễn Hồi Thủ has elevated Vietnamese readership and brought them into global literary and philosophical dialogue. He is more than a cultural bridge—he is a builder of it.
Despite his global journey, Nguyễn Hồi Thủ speaks Vietnamese every day with the community in San Diego. But he admits, with sadness, that his children—now living in San Francisco, Australia, Switzerland, and the U.K.—speak Vietnamese less fluently.
“They understand, but they rarely use it. Over time, it fades. That’s the nature of exile.”
He reflects, too, on the fading of Vietnamese literacy among younger generations in the diaspora.
“These days, who reads printed books anymore? In my time, people read Vietnamese translations eagerly. Now it’s all digital. Even when we print, it doesn’t sell.”
Even as he continues to write and publish, Nguyễn Hồi Thủ is deeply concerned about the erosion of Vietnamese language in younger generations abroad.
“The Chinese and Korean communities have elementary schools for their heritage languages,” he says. “Our kids learn Vietnamese only in churches or temples—if at all. Without strong foundations at home, we risk losing the language completely.”
He sees this linguistic drift not only as a loss of vocabulary but of cultural continuity. He notes how modern Vietnamese has become heavily diluted, and fears that if parents and communities don’t actively preserve the language, future generations may lose their connection to identity altogether.
Despite his age, Nguyễn Hồi Thủ continues to advocate for human rights. He dreams of founding an organization to support Vietnamese political prisoners and prisoners of conscience.
“They release one, only to arrest another. Human beings are treated like pawns,” he says. “I may not know how far I can go, but I must try. We have to help them live.”
He also laments the internal divisions that often weaken Vietnamese communities abroad.
“We struggle to unify. Real strength takes time, and a shared vision. But we must keep striving.”
Through his poetry, translations, and activism, Nguyễn Hồi Thủ has become one of the Vietnamese diaspora’s most enduring voices. His life reflects the trajectory of countless refugees: educated, dislocated, scattered—but never disconnected. His work speaks not only of what was lost, but of what can still be reclaimed—through language, memory, and moral courage.
“I may have lived far from Vietnam for most of my life,” he says,
“but every word I write is a way of being home.”